Trong năm
2021 bệnh Viêm da nổi cục trâu bò bắt đầu xuất hiện tại xã Giai Xuân từ ngày
06/3 sau đó lây lan sang 22/22 xã, thị trấn trên địa bàn toàn huyện. Dịch bệnh
đã làm 403 con trâu, bò, bê, nghé mắc bệnh, 117 con chết. Thực hiện các văn bản
chỉ đạo của UBND huyện đã triển khai tiêm phòng được 13.360 liều vắc xin, đạt tỉ
lệ 32,14% trong năm 2021.
Thực hiện Quyết định số
7764/QĐ-UBND ngày 31/12/2021 của UBND huyện Tân Kỳ Về việc Ban hành Kế hoạch
phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm và thủy sản năm 2022; Công văn số 346/UBND.NN ngày 07/3/2022 V/v
triển khai công tác tiêm phòng vắc xin cho đàn vật nuôi vụ Xuân 2022 và chính
sách hỗ trợ trong công tác thú y. Đến thời điểm hiện nay ngày 10/5/2022 đã triển khai
tiêm phòng được 6.800 liều vắc xin Viêm da nổi cục, đạt tỉ lệ 13,33%. Việc tiêm
phòng vắc xin đạt tỉ lệ thấp nguy cơ xẩy ra dịch bệnh và lây lan trong thời
gian tới là rất lớn.
Để chủ động
phòng, chống bệnh Viêm da nổi cục trâu, bò trên địa bàn huyện, Trung tâm Dịch vụ
nông nghiệp hướng dẫn các biện pháp phòng, chống dịch bệnh như sau:
1. Đặc điểm của vi rút gây bệnh
Bệnh Viêm
da nổi cục (viết tắt là LSD, còn được gọi là bệnh da sần) là bệnh truyền nhiễm
do một loại vi rút gây ra trên trâu, bò. Vi rút Viêm da nổi cục không lây nhiễm
và lây bệnh trên người.
Vi rút
Viêm da nổi cục rất ổn định, tồn tại trong thời gian dài ngoài môi trường, đặc
biệt là ở dạng vảy khô; tồn tại trong các nốt da hoại tử trên 33 ngày, trong
các lớp vảy khô là 35 ngày và ít nhất 18 ngày trong da phơi khô. Vi rút nhạy cảm
với ánh sáng mặt trời và chất tẩy rửa có dung môi lipid, nhưng trong điều kiện
môi trường tối và ẩm ướt ví dụ như chuồng trại bị ô nhiễm vi rút có thể tồn tại
trong nhiều tháng.
2. Loài vật mắc bệnh
Động vật mẫn
cảm với bệnh là trâu, bò, bê, nghé. Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 10-20%, tỷ lệ chết
khoảng 1-5%. Thời gian ủ bệnh trung bình khoảng 4-14 ngày.
3. Đường truyền lây
Chủ yếu
lây qua côn trùng đốt như ruồi, muỗi, ve, mòng…; bệnh cũng có thể lây truyền do
vận chuyển trâu, bò mang mầm bệnh, sử dụng chung máng uống, khu vực cho ăn, sữa,
tinh dịch và qua tiếp xúc trực tiếp.
4. Chất chứa mầm bệnh
Các nốt sần và vảy da chứa một lượng vi rút tương đối cao. Vi rút có thể
được phân lập từ những bệnh phẩm này trong 35 ngày và có thể lâu hơn. Ngoài ra
vi rút có thể được phân lập từ máu, nước bọt, dịch tiết ở mắt và mũi và tinh dịch.
Vi rút được
tìm thấy trong máu khoảng 7-21 ngày sau khi nhiễm bệnh, với mức độ thấp hơn so
với trong các nốt sần ở da tại cùng thời điểm lấy mẫu.
Sự bài thải
của vi rút trong tinh dịch có thể kéo dài tới 42 ngày. Cũng có bằng chứng về sự
lây truyền vi rút qua nhau thai.
5. Mùa phát bệnh
Bệnh thường
xẩy ra theo mùa, chủ yếu vào những tháng có thời tiết ấm, khi côn trùng hoạt động
mạnh và phong phú nhất, gây thiệt hại về năng suất do sản lượng sữa giảm mạnh,
giảm khả năng sinh sản, sẩy thai, tổn thương da, giảm tăng trọng, gia súc có thể
chết, gây tổn thất về kinh tế do hạn chế vận chuyển và thương mại.
6. Triệu chứng
Trâu, bò mắc
bệnh thường có những dấu hiệu: Sốt cao, có thể trên 41oC, bỏ ăn, suy nhược và
gầy yếu. Giảm khả năng tiết sữa rõ rệt ở gia súc đang cho con bú, viêm mũi,
viêm kết mạc mắt và tiết nhiều nước bọt; sưng hạch bạch huyết bề mặt (hạch trước
vai, hạch sau đùi).
Hình thành
các nốt sần có đường kính từ 2-5 cm, đặc biệt là ở da đầu, cổ, chân, bầu vú, cơ
quan sinh dục và đáy chậu trong vòng 48 giờ sau khi bắt đầu phản ứng sốt. Các nốt
sần có hình tròn, rắn chắc và nhô cao trên da, mô dưới da và đôi khi cả các cơ
bên dưới.
Các nốt sần
lớn có thể bị hoại tử và cuối cùng là xơ hóa và tồn tại trong vài tháng, để lại
các nốt sẹo có thể tồn tại vĩnh viễn.
Các mụn nước,
vết hoại tử và vết loét có thể xuất hiện ở màng nhầy của miệng và đường tiêu
hóa cũng như trong khí quản và phổi.
Chân và
các bộ phận vùng bụng khác của cơ thể, như bao da, ức, bìu và âm hộ có thể bị
tiết dịch khiến con vật không muốn di chuyển.
Bò đực có thể bị vô sinh vĩnh viễn hoặc tạm thời, bò mang thai có thể sẩy
thai.
Một số con vật bị bệnh không biểu hiện triệu chứng nhưng mang vi rút
trong máu và có thể truyền bệnh cho động vật khỏe thông qua côn trùng hút máu.
7. Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán
lâm sàng dựa trên những biểu hiện như sốt và các nốt sần đặc trưng trên da
trâu, bò mắc bệnh. Chẩn đoán lâm sàng cần được xác nhận bằng xét nghiệm trong
phòng thí nghiệm.
8. Phòng bệnh Viêm da nổi cục
Triển khai
các biện pháp kiểm soát, phòng bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò theo Luật Thú
y, Thông tư 07/2016/TT-BNNPTNT, các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh Nghệ An, huyện
Tân Kỳ.
Rà soát,
thống kê số lượng trâu, bò trên địa bàn quản lý, tăng cường kiểm soát vận chuyển
trâu, bò từ vùng này sang vùng khác; chủ động theo dõi, giám sát kịp thời, phát
hiện sớm các trường hợp trâu, bò mắc bệnh, nghi mắc bệnh; tiêm phòng vắc xin
cho đàn trâu, bò trên địa bàn.
Tổ chức
tiêu độc khử trùng chuồng trại, nơi tập trung buôn bán, chăn thả, vùng nguy cơ
cao, chú trọng sử dụng các thuốc đặc hiệu để tiêu diệt côn trùng, ruồi, muỗi,
ve, mòng…
Tăng cường
sức đề kháng cho con vật bằng cách cung cấp thức ăn đảm bảo đủ chất dinh dưỡng
và đủ nguồn nước sạch cho trâu, bò. Hàng ngày chú ý quan sát con vật, khi thấy
biểu hiện không bình thường như các triệu chứng trên cần báo cáo cán bộ thú y
xã, chính quyền địa phương.
9. Xử lý dịch bệnh Viêm da nổi cục, chống
dịch
Phong tỏa
vùng dịch, ổ dịch, lập chốt kiểm soát, biển báo, nghiêm cấm việc vận chuyển
trâu, bò ra vào vùng dịch.
Tiến hành
tiêu hủy trâu, bò bị chết, sản phẩm của trâu bò mắc bệnh viêm da nổi cục.
Tiến hành xử lý chất thải như thức ăn thừa, chất độn chuồng bị nhiễm mầm
bệnh.
Tổ chức vệ
sinh, sát trùng tiêu độc môi trường thường xuyên, sử dụng các thuốc đặc hiệu
phun tiêu diệt côn trùng, như ruồi muỗi, ve mòng. Phát quang bụi rậm, khơi
thông cống rãnh để hạn chế mầm bệnh và côn trùng tồn tại.
Tiêm phòng
khẩn cấp đối với các xã có dịch, tiêm từ ngoài vào trong, tiêm vùng chưa có dịch
trước; triển khai tiêm nhanh gọn, triệt để./.
Nguyễn Viết Hiến – Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp Tân Kỳ